khó khăn tâm lý

Khó Khăn Trong Công Việc. Mỗi người sinh ra đều mang một sứ mệnh là sống và cống hiến cho cuộc đời. Đó là lý do vì sao chúng ta đang nỗ lực làm việc từng ngày để chứng tỏ chính mình. Nhưng con đường hoàn thành sứ mệnh không phải lúc nào cũng dễ dàng và trải đầy Những khó khăn, khủng hoảng tâm lý của học sinh trong bối cảnh dịch Covid-19 đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, giáo viên có kiến thức sâu về tâm lý, tư vấn tâm lý học đường, đặc biệt là đội ngũ giáo viên chủ nhiệm, cán bộ đoàn, đội. Nếu không nắm bắt được tâm lý của trẻ nhỏ, không hiểu chúng thực sự muốn gì thì cha mẹ sẽ gặp những khó khăn trong giáo dục con cái. Cha mẹ nên biết ở độ tuổi từ 3 đến 6 tuổi là khoảng thời gian trẻ nhận thức tốt nhất về thế giới xung quanh, trẻ học Chậm phát triển ngôn ngữ sẽ khiến trẻ gặp khó khăn trong giao tiếp, kết 14 Th4 Phân biệt trẻ chậm nói đơn thuần và các dạng rối loạn phát triển khác Do gặp vấn đề về ngôn ngữ và diễn đạt, trẻ chậm nói đơn thuần 14 Th4 Trẻ chậm nói có kém thông minh? Khi thấy trẻ chậm nói, cha mẹ thường lo lắng liệu trẻ có kém thông 14 Th4 35. 27 Như vậy, khó khăn tâm lý trong giao tiếp là những đặc điểm tâm lý cá nhân thể hiện sự không phù hợp giữa cảm xúc, hành vi ứng xử của cá nhân với nội dung, đối tượng, hoàn cảnh giao tiếp, làm cản trở quá trình giao tiếp đạt hiệu quả. Biểu hiện của khó Nhiều khó khăn trong quản lý đất đai. 10/02/2020 09:30. (CMO) Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) là đơn vị có nhiều thủ tục hành chính (TTHC) liên quan đến đất đai. Với phương châm lấy người dân, doanh nghiệp (DN) làm trung tâm phục vụ, năm qua, Sở TN&MT thực hiện đạt 100% Ơi Vay Lừa Đảo. Bài viết gồm 2 phần. Phần 1 trình bày những đặc điểm tâm lý nổi bật ở học sinh THCS. Phần 2 đưa ra những quan điểm của người viết về các tư duy giúp giải quyết khó khăn ở học sinh THCS...Bài viết gồm 2 phần. Phần 1 trình bày những đặc điểm tâm lý nổi bật ở học sinh THCS. Phần 2 đưa ra những quan điểm của người viết về các tư duy giúp giải quyết khó khăn ở học sinh THCS...Lứa tuổi học sinh THCS từ 11 đến 15 tuổi là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Ở mỗi cá nhân, giai đoạn này được đặc trưng bởi 1 sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sinh lý; 2 những thay đổi hàng loạt trong hoạt động và tương tác xã hội cũng như 3 sự phát triển nhận thức và nhân cách. Mình tin rằng phần lớn độc giả đã đi qua giai đoạn "ngã ba đường" của sự phát triển này, tuy vậy trước khi thảo luận về khó khăn trong học tập ở các em, hãy cùng tổng kết một vài điểm nổi bật ở lứa tuổi học sinh THCS và những ảnh hưởng của nó tới tâm lý học sinhHiện tượng dậy thì chính là nguyên nhân của sự phát triển thể chất và sinh lý mạnh mẽ ở mỗi học sinh. Ngày nay, với điều kiện dinh dưỡng ngày càng đảm bảo đôi khi quá mức, hiện tượng dậy thì diễn ra ngày càng sớm. Đối với trẻ gái, tuổi dậy được tính từ thời điểm xuất hiện kinh nguyệt trung bình khoảng 10-11 tuổi trong khi ở trẻ trai, được tính từ lần xuất tinh đầu tiên thường trong khoảng 11-12 tuổi. Những thay đổi có thể kể đến như1 Chiều cao nhảy vọt, khối lượng cơ và thịt tăng. Các em cao to, khoẻ mạnh hơn tuy nhiên thường chóng mệt và hoạt động không lâu bền như người lớn 2 Hệ xương phát triển mạnh những không đều hệ cơ phát triển chậm hơn làm thiếu niên lúng túng, vụng về trong hoạt động dẫn đến tâm lý thiếu tự tin, không thoải mái 3 Hệ tim mạch cũng phát triển không cân đối thể tích tim tăng nhưng đường kính mạch máu phát triển chậm gây rối loạn tuần hoàn máu làm thiếu niên thường có cảm giác mệt mỏi, nhức đầu, dễ bực tức 4 Quá trình hưng phấn chiếm ưu thế nên thiếu niên không làm chủ được cảm xúc, khó kiềm chế xúc động, dễ mất bình tĩnh,... 5 Sự mất cân đối giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất các giác quan và hệ thống tín hiệu thứu hai ngôn ngữ khiến thiếu niên nói chậm, khó trình bày và lúng túng, nhát gừng khi trả lời 6 Và nhiều biến đổi khác... Kết thúc đặc trưng đầu tiên, ta nhận thấy sự phổng phao của tuổi dậy có vẻ đã gia tăng "cảm giác người lớn" ở học sinh nhưng ở mặt khác nó cũng mang đến cho các em không ít rắc rối. Hãy cùng chuyển sang đặc trưng thứ haiCó nhiều điều để nói về hoạt động và tương tác xã hội ở học sinh THCS. Chúng ta sẽ xem xét sự ảnh hưởng của các mối quan hệ giao tiếp đến tâm lý các em trong giai đoạn nàyCác em xuất hiện mong muốn cải tổ mối quan hệ với người lớn, bao gồm hạn chế quyền hạn của người lớn và mở rộng quyền hạn của chính mình. Các em khao khát sự bình đẳng, không thích sự can thiệp và giám sát chặt chẽ như trước đây lứa tuổi tiểu học. Từ đó nảy sinh những phản ứng như chống cự, không phục tùng, kịch hoá tác động của người lớn Quá trình giao tiếp này thường diễn ra xung đột khi nhận thức và hành xử của người lớn không theo kịp sự phát triển nhanh nhưng bất ổn về thể chất và tâm lý của các em. Người lớn không chịu thay đổi thái độ với thiếu niên cho rằng các em còn phụ thuộc và cần can thiệp và sự độc lập hoặc không thể từ bỏ thói quen chăm sóc, điều khiển tỉ mỉ sinh hoạt của các em. Bản thân các em cũng tồn tại mâu thuẫn giữa nhu cầu thoát ly, muốn độc lập trong khi bản thân lại chưa có nhiều kinh nghiệm ứng xử, giải quyết vấn đề và vẫn có nhu cầu được người lớn chia sẻ, định hướngPhương án giải quyết mâu thuẫn trong giao tiếp của học sinh THCS với người lớn thường được đề xuất là xây dựng một mối quan hệ bạn bè, hợp tác trên cơ sở tôn trọng, tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau. Với các em, bạn bè dần trở thành một tôn giáo duy nhất được tin tưởng hơn cả gia đình và đôi khi, cách duy nhất để chúng ta có thể tác động đến các em là tham gia cuộc chơi ấyCác em khao khát được hoạt động chung, được sống tập thể, có đồng chí và bạn bè thân thiết tin cậy. Cùng với việc được thông tin, học hỏi, tâm sự và thể hiện; thông qua bạn bè, học sinh THCS được thoả mãn nhu cầu bình đẳng và độc lập thứ không được đáp ứng trong quá trình giao tiếp với người lớn. Nhờ giao tiếp với bạn bè, các em cũng phát triển các kĩ năng xã hội, khả năng lý luận, diễn tả cảm xúc cũng như khẳng định cá tính, xu hướng và trí tuệ của mìnhVới học sinh giai đoạn này, sự bất hoà với bạn bè và thiếu thốn tình bạn thân được xem là bi kịch cá nhân. Sự phê bình thẳng thắn của tập thể, bạn bè là tình huống khó chịu nhất khi chịu và bị bạn bè tẩy chay là hình phạt nặng nề nhấtTrong mối quan hệ này, ta còn thấy được hệ thống yêu cầu cao và máy móc của học sinh THCS. Những phẩm chất tình bạn có thể kể đến như quan hệ bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau, lòng trung thành, tính trung thực. Các em kết bạn với những học sinh được tôn trọng, có uy tín hay có tiến bộ rõ rệt về mặt nào đó. Các em quan niệm bạn bè thì phải hiểu nhau, đồng cảm, cởi mở, giữ bí mật với lý tưởng “sống chết có nhau”, đồng điệu về giá trị cá nhân và quan điểm sống. Tất cả mối quan hệ bạn bè vì thế được xây dựng trên cơ sở một "bộ luật tình bạn" nào đóMột điểm cần lưu ý thêm là sắc thái giới tính đã xuất hiện trong quan hệ với bạn ở học sinh. Nhìn chung, các em tò mò và chú ý nhiều hơn đến bạn khác giới. Các em nữ thường tỏ vẻ thờ ơ, lãnh đạm giả tạo khinh bỉ còn các em nam thể hiện công khai, tản mạn trẻ con xô đẩy, trêu chọc và có khi thô bạo giật tóc, giấu cặp. Những xúc cảm trong sáng khiến các em quan tâm nhiều hơn đến bề ngoài của mình, cũng là động lực thúc đẩy tự hoàn thiện và tu dưỡng bản thân. Trong giai đoạn này, một số em bị cuốn hút và “yêu đương”, đôi khi không hiểu rõ tình cảm của mình và vì thế ảnh hưởng nhất định đến kết quả học cấp THCS, chúng ta chứng kiến sự phát triển cao hơn về nhận thức cũng như nhân cách của học sinh. Đây là đặc trưng cuối cùng về lứa tuổi trước khi chúng ta chuyển sang phần II. Các em đã có khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp thông quan việc trí giác các sự vật. Tuy nhiên hạn chế với nhiều em là quá trình tri giác còn thiếu kiên trì, vội vàng hấp tấp dãn đến tính tổ chức và hệ thống của tri giác còn yếu. Khả năng tư duy ở các em đã phát triển hơn do nội dung phong phú, đa dạng, phức tạp của môn học. Các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức, giải quyết bài tập theo những quan điểm riêng, không thích trả lời máy móc như nhi đồng. Các em cũng không dễ tin và chấp nhận ý kiến của người khác, luôn muốn tranh luận, chứng minh để xác thực vấn đề một cách rõ chú ý của học sinh THCS chưa bền vững, các em dễ bị phân tâm với những ấn tượng và rung động mạnh mẽ. Đôi khi các em chỉ nắm dấu hiệu bề ngoài chứ không phải bản chất, đối với một số hoạt động nhận thức chưa trở thành hoạt động độc lập, còn thiếu kiên trì, thích học nhanh nhưng ngại suy nghĩ. Khả năng ghi nhớ của các em trong giai đoạn này có sự gia tăng về tốc độ và khối lượng, dần có tính chủ định và có tổ chức. Về ngôn ngữ, một số em thích dùng từ cầu kỳ, bóng bẩy nhưng sáo rỗng. Các em cũng cần rèn luyện thêm để tăng khả năng suy nghĩ có tính độc lập và phê phánĐiểm đặc biệt trong nhân cách học sinh THCS là sự phát triển mạnh mẽ của tự ý thức. Các em quan tâm nhiều hơn đến nội tâm, nảy sinh nhu cầu tự đánh giá, so sánh mình với người khác. Tuy nhiên khả năng đánh giá của thiếu niên thường chưa tương xứng với nhu cầu đó, nhìn chung các em tự thấy chưa hài lòng về chính mình. Các em đã biết tự giáo dục bản thân thông qua việc thúc đẩy bản thân thực hiện những nhiệm vụ, kế hoạch tự đề ra trong việc rèn luyện và tu với tự đánh giá, các em cũng rất nhạy cảm khi quan sát và đánh giá người xung quanh, đặc biệt với cha mẹ, giáo viên. Những đánh giá này thường đầy đủ và đúng đắn hơn so với tự đánh giá. Thông qua đó, các em tự tìm ra một hình mẫu lí tưởng cho riêng mình để phấn đấu, noi theo. Nhưng, hạn chế của giai đoạn này là thiếu niên chưa thực sự biết cách rèn luyện để có được hình mẫu nhân cách đó do chưa phân tích được mặt phức tạp của đời sống và các quan hệ trong xã hội.Chúng ta đã biết thể chất, sinh lý, tương tác xã hội, nhận thức và nhân cách đều ảnh hưởng không nhỏ tâm lý học sinh THCS, theo một cách nào đó chúng tạo nên những cuộc khủng khoảng trong bản thân các em. Cùng với những mâu thuẫn không ngừng ấy, học sinh THCS tham gia học tập như một hoạt động chủ đạo và cũng gặp phải không ít khó khănỞ thời kỳ đầu, các em hầu như chưa có kỹ năng cơ bản để tổ chức tự học học sinh chỉ học khi có bài tập và nhiệm vụ được giao. Do hứng thú, sở thích cũng như nội dung và phương pháp giảng dạy khác nhau, các em hình thành thái độ phân hoá như yêu thích, nhàm chán,... đối với từng môn học. Khó khăn đầu tiên đối với học sinh THCS là không biết phương pháp học tập thế nào cho hiệu khi động cơ học tập còn phức tạp đến từ nhu cầu tìm hiểu tri thức, từ mong muốn phục vụ xã hội hay từ động cơ riêng liên quan đến uy tín, tự trọng với bạn bè hay mong muốn tiến bộ với bản thân, cha mẹ, thầy cô; dự định nghề nghiệp;... Hầu hết động cơ này chưa đủ bền vững do những mâu thuẫn trong tâm lý - đã chỉ ra ở phần I, các em gặp khó khăn thứ hai liên quan đến vượt qua trì hoãn, lười biếng và các cám dỗ như trò chơi điện tử, xem tivi,.. để học tập một cách chăm phải nói thêm rằng, khi không làm chủ những kĩ năng xã hội đặc biệt trong giao tiếp với thầy cô và bạn cùng lớp hay khả năng lí luận dựa trên sự phát triển nhận thức, các em thường cảm thấy tự ti và thấp kém. Cùng với việc khó khăn trong giải toả các áp lực từ gia đình, thầy cô, bạn bè về thành tích học tập, các em đôi khi từ bỏ việc tự giáo dục để hoàn thiện chính mình do tâm lý bi quan sau những thất bại và tư duy cố định về khả năng của bản thân.Tóm lại thì, chúng ta có thể làm gì để giúp đỡ các em?Một tư duy thông thường về khó khăn sẽ trải qua lần lượt những bước bao gồm nhận thức - phân tích - tìm giải pháp - tiến hành. Tuy nhiên, đối với các học sinh THCS, rất khó để chúng ta có thể dẫn dắt các em tự mình trải qua từng bước. Bởi vậy, sự giúp đỡ, đồng hành của người lớn trong quá trình này là vô cùng quan trọng. Trong bài viết này, mình đề xuất 3 tư duy cần có trong nhận thức về 1 thất bại, 2 khác biệt và 3 khả năng. Việc nắm được các tư duy này theo mình sẽ giúp học sinh THCS giải quyết hầu hết các khó khăn trong học tập. Hãy cùng bắt đầu nhé!Tư duy 1 Thất bại không xấu - che giấu không khônX là một học sinh lớp 7. Với X, thất bại là thất bại. X rất khó để nhìn vào thất bại mà học hỏi "thất bại là mẹ thành công" vì với em đây là một nỗi đau X bị chỉ trích và không có được sự cảm thông bởi bạn bè, cha mẹ và những người em tin tưởng. Với những suy nghĩ như vậy, X sẽ hạn chế tối đa việc thực hiện lại hành động đó trong tương lai, một nỗi sợ hình thành và một cơ hội học tập biến nhưng em không được học điều này. Phần lớn học sinh không có khả năng học hỏi nhiều từ sai lầm của bản thân. Nếu là một người lớn trong trường hợp của X, điều chúng ta nên làm là cùng em trải qua khó khăn, phân tích những sai lầm để tìm ra bài học. Nói như Thomas Edison khi ông thất bại trong việc tìm vật liệu làm ra sợi dây tóc bóng đèn "Tôi không thất bại. Tôi chỉ là đã tìm ra cách không hoạt động". Học sinh THCS cần hiểu rằng điều quan trọng đối với mỗi thất bại là học hỏi, tìm ra "cách không hoạt động" trong đó. Vì thế, che-giấu-không-khôn và sẽ là có nhiều lợi ích hơn khi chia sẻ trải nghiệm đó với "người có kinh nghiệm sửa chữa".Trong tư duy này, người lớn giáo viên cần trở thành "người có kinh nghiệm sửa chữa" thông qua việc không ngừng rút kinh nghiệm sau mỗi sai lầm của các em trong cuộc sống học tập. Cùng với việc đưa ra giải pháp phù hợp, sự tự tin khi đối diện thất bại của các em chắc chắn sẽ không ngừng tăng duy 2 Khác biệt không sai - ai chẳng giống mìnhTrong quá trình học tập xảy ra một trường hợp như này, nhiều học sinh có những ý tưởng, sáng kiến rất mới lạ nhưng do không thuận tiện với bài học, đôi khi các em bị gạt đi, hoặc thậm chí bị cho là kém cỏi. Chúng ta đều hiểu rằng, luôn tồn tại sự khác biệt giữa các học sinh. Vậy nên với các vấn đề khác nhau, rào cản và cách tiếp cận của từng học sinh sẽ khác nhau. Khác-biệt-không-sai. Nhưng khi sự khác biệt ấy không được khuyến khích một cách hợp lý, với lý tưởng tình bạn - tập thể, rất nhiều học sinh sẽ từ bỏ sự khác biệt của chính mình. Và khi những khó khăn mang màu sắc cá nhân dần bị loại đi, không được xem trọng, chẳng có gì bất ngờ khi các em trở nên ngày càng tự ti, mang nhiều cảm giác thấp kém. Các em cần hiểu rằng ai-chẳng-giống-mình, bất kì ai đều có thể mang những suy nghĩ khác lạ so với phần còn lại tập thể. Người lớn cần phải giúp các em tôn trọng sự khác biệt ở người khác, khi học được điều này, bản thân mỗi học sinh cũng sẽ tự tin hơn trong việc bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân. Một lưu ý nhỏ là tư duy này không khuyến khích lối nghĩ vị kỉ, coi trọng bản thân, mặc kệ người khác. Khác biệt phải được xây dựng trên cơ sở tốt lành, không xâm phạm lợi ích của bất kì một cá nhân duy 3 Mọi thứ đều đổi - tốt là tiến lênHọc sinh nghĩ gì về khả năng của bản thân? Có 2 quan điểm xoay quanh điều này. Tư duy cố định cho rằng khả năng học tập mỗi người là có hạn, khi gặp một vấn đề nào đó, các em thường né tránh và tìm cách thoát khỏi nó vì sợ hãi thất bại . Trong suy nghĩ các em, các bạn giỏi thì luôn giỏi và kém vì không thể giỏi. Mình được nghe tâm sự của một vài bạn có học lực kém trên trường, quả thực các bạn ấy đã từng tin rằng bản thân không có năng lực để học tập tốt, do vậy tự đánh mất động lực học tập của bản thân. Vẫn viết học tốt còn do nhiều yếu tố nhưng tư duy này rõ ràng đã kìm hãm sự phát triển của học lại với tư duy cố định là tư duy phát triển. Quan điểm này tin rằng khả năng học tập có thể thay đổi cùng với nỗ lực của mỗi cá nhân. Các nghiên cứu chỉ ra rằng khi trẻ được đọc và học về bộ não, cách nó thay đổi và phát triển khi đối mặt thách thức. Các em trở nên kiên trì hơn trước thất bại. Người lớn cần giúp các em hiểu rằng mọi-thứ-đều-đổi, từ đó không ngừng khuyến khích tư duy phát triển này ở các em trong mọi tình huống của học tập và đời sống. Mình rất thích một "quy định" trong giờ học Lý hồi cấp 3, thay vì trả lời "em không biết", học sinh chỉ được quyền nói "em chưa biết" - một tinh thần học tập thật tuyệt chỉ về khả năng thay đổi, người lớn cần vạch ra cho các em chiều hướng thay đổi. Tốt-là-tiến-lên tức là cần không ngừng rèn luyện để cải thiện, phát triển năng lực bản thân. Bữa ăn hôm nay Z kho thịt rất ngon, đến một hôm nào đó mẹ Z có thể hỏi "Z thử vừa kho thịt vừa luộc rau mà vẫn ngon như thế, được không con?". Người lớn trong tư duy này cần tìm ra cơ hội phát triển của các em trong từng tình huống, từ đó khuyến khích sự rèn luyện, học tập và tu dưỡng theo hướng đó để không ngừng tiến lên. Một lưu ý nhỏ khi các em chưa thực hiện được "cải tiến", người lớn cần kiễn nhẫn trong việc tiếp thêm hy vọng, liên tục động viên các em. Sức mạnh của niềm tin chẳng phải rất lớn sao ^^ Tư duy 1 Thất bại không xấu - che giấu không khôn Tư duy 2 Khác biệt không sai - ai chẳng giống mình Tư duy 3 Mọi thứ đều đổi - tốt là tiến lên Ba tư duy trên về giải quyết khó khăn thực chất không có gì cao siêu. Tuy vậy, không dễ dàng để người lớn đồng hành và giúp các em hiểu được nó. Để làm được tất cả điều đó, trước tiên chúng ta cần có khả giao tiếp một cách cởi mở, gần gũi với các em. Người lớn cần học cách thấu hiểu các em. Và nhiều khi, những cuộc hội thoại ấm áp chỉ đòi hỏi một quãng thời gian rảnh rất nhỏ sau giờ ăn tối cùng một băn khoăn khao khát biết từ đáy lòng Ngày hôm nay của con thế nào?Không ai có thể chống lại một người thật lòng yêu thương mình! Tham khảo Giáo trình Tâm lí học giáo dục - NXB Đại học Sư phạm2 Bất ổn tâm sinh lý thanh thiếu niênBất ổn tâm lý lứa tuổi thanh - thiếu niên Hậu quả khó lườngDo nhiều áp lực từ nhà trường và gia đình học hành, thi cử đã tạo nên những bệnh trạng tâm lý bất ổn ở lứa tuổi thanh - thiếu niên ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống, chính vì vậy VnDoc xin giới thiệu với các bạn bài viết dưới đây với nội dung Bất ổn tâm lý lứa tuổi thanh - thiếu niên Hậu quả khó lường để bạn đọc hiểu rõ và các dấu hiệu và phòng ngừa cho người thân và gia đình câu hỏi "thầm kín" tuổi dậy thìKinh nguyệt ở tuổi dậy thì và những điều bất thườngNhững thắc mắc thường gặp của con gái tuổi dậy thìÁp lực học hành, thi cử ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống của nhiều trẻ vị thành niênThời gian gần đây, những vụ tự tử ở lứa tuổi học sinh gây xôn xao dư luận xã hội dường như ngày càng gia tăng. Hoàn cảnh khiến các em phải tìm đến cái chết, nhiều học sinh thi trượt đại học cũng tìm đến cái chết hoặc vì bức xúc trong mối quan hệ với bạn bè, cha mẹ, thầy cô mà bỏ nhà đi bụi, tìm đến ma tuý...Quá tải vì học hành, thi cửTheo TS Nguyễn Kim Quý, phần nhiều học sinh khi tìm đến với các chuyên gia tư vấn tâm lý đều phản ánh về việc bố mẹ gây sức ép quá lớn tới con cái trong việc thi cử. “Mọi việc đều phải theo ý kiến của phụ huynh, từ chọn thầy cô, chọn ngành, chọn trường rồi đưa đón, theo sát từng bước khiến các em thấy căng thẳng, thậm chí chán nản, không còn hứng thú học tập và chỉ học để đối phó”.“Bài học” về áp lực học hành, thi cử khiến học sinh tìm tới giải pháp tiêu cực nhất là cái chết đã và đang hiện hữu. Đặc biệt, ở thời điểm liên tiếp diễn ra các kỳ thi, một số vụ học sinh tự tử vì sức ép học hành khiến không ít phụ huynh hoang dân thị trấn Nàng Mau, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang phát hiện thi thể một học sinh chết trôi trên sông Xáng Nàng mới chỉ sinh năm 2002, là học sinh lớp 5. Khi kiểm tra tại nhà, Cơ quan điều tra đã thu được lá thư để trên bàn học với nội dung muốn đi xa. Người nhà em cho biết, ba ngày trước khi gặp nạn, em có bị mẹ mắng và đánh vì không làm bài mẹ bắt đi học thêm cũng là một trong những nguyên nhân khiến học sinh tự tử. Trong khoảng thời gian tháng 7-8/2010 đã liên tiếp xảy ra những vụ việc dạng này. Một học sinh lớp 8 ở quận Tân Bình, TPHCM phải nhập viện cấp cứu ngộ độc thuốc an thần khi em tìm đến cái chết chỉ vì bố mẹ la mắng không chịu đi học thêm. Lý do khi được bác sĩ hỏi cậu học sinh này cho biết vì em đã rất chán ngán với việc học ở lớp và cho rằng hè là dịp để xả hơi; nhưng bố mẹ la mắng vì cho rằng em lười biếng. Cho rằng bị xúc phạm, em đã uống cả chục viên thuốc an thần để tìm đến cái vì mẹ ép phải đi học hè mà một học sinh lớp 8 ở TP. Tân An, Long An đã uống 30 viên thuốc Paracetamol để tự tử. Rất may, em đã được các bác sĩ cứu chữa kịp vì áp lực thi cử, đã xảy ra không ít vụ thí sinh tự tử do thi trượt trong những năm qua. Như trường hợp một học sinh lớp 12 chuyên toán tỉnh Quảng Ngãi đã uống thuốc sâu tự tử sau khi thi đại học, do lúc đối chiếu với đáp án thấy bài làm của mình không tốt. Trước đó, một học sinh sinh năm 1991, ở xã Yên Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An đã tự tử bằng lá ngón ở tuổi 18, do thất vọng trước kết quả dự thi ĐH. Ở Nam Định cũng từng có trường hợp học sinh treo cổ tự tử trong phòng riêng sau khi biết tin mình thi trượt áp lực từ học hành, thi cử, các em ở lứa tuổi học sinh còn tìm đến cái chết bởi những lý do rất bất ngờ. Chẳng hạn năm 2012, một học sinh THCS ở xã Tiền Phong, Mê Linh đã tự tử vì làm mất đồng tiền quỹ biệt, thời gian gần đây, những vụ thanh niên trả thù tàn bạo vì thất tình đã gây nên tâm lý phẫn nộ lẫn lo lắng cho cả học sinh và phụ huynh có con ở lứa tuổi chập chững bước vào lớn học sinh lo lắng về cuộc sống hiện tạiKết quả một cuộc khảo sát nhỏ do tiến sĩ Nguyễn Thị Mùi, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, và cộng sự từng thực hiện về “Thái độ của học sinh về cuộc sống hiện tại” ở 2 trường THPT Trần Hưng Đạo và Nguyễn Tất Thành Hà Nội cho thấy, số học sinh cảm thấy “rất hài lòng và rất yên tâm” về cuộc sống của mình chiếm tỉ lệ rất thấp 3,2%. Trong khi đó, có tới hơn 96% học sinh có băn khoăn, lo lắng ở những mức độ khác nhau. Theo bà Mùi, các khó khăn tâm lý đều ảnh hưởng đến HS, thậm chí với một số HS là ảnh hưởng nặng nề, có thể dẫn đến những chấn động tâm lý 38,9%.Cách thức mà học sinh thường sử dụng khi gặp phải những khó khăn tâm lý là “âm thầm chịu đựng” 44%. Có 14,2% số trẻ lựa chọn cách giải quyết là “phó mặc” và 4,9% số trẻ không biết cách giải quyết dẫn đến hoang mang, lo sợ và thụ động. Phương thức tích cực nhất mà các em đã sử dụng là “tâm sự với người khác” 20,3%.Tuy nhiên, đối với những học sinh lựa chọn cách tâm sự với người khác thì đối tượng tâm sự của các em chủ yếu là bạn bè và việc tâm sự với bạn chỉ để giải toả những căng thẳng nhất thời. Nhưng, đôi khi do hiểu biết có hạn, các em có thể định hướng cho nhau theo chiều hướng sai lệch. Cách giải quyết này đôi khi dồn trẻ vào thế bế tắc hơn bởi đôi khi do hiểu biết có hạn, các em định hướng cho nhau theo chiều hướng sai lệch, dẫn đến việc bao che khuyết điểm cho phòng Chủ tịch Nước hiện đang thực hiện một cuộc khảo sát trực tiếp ở 15 tỉnh, thành trên cả nước trong đó có Hà Nội về việc dạy đạo đức cho học sinh. Ông Nguyễn Hiệp Thống- Phó Giám đốc Sở GDĐT Hà Nội thừa nhận với đoàn khảo sát, nhiều HS có hành vi sốc nổi, lệch chuẩn đạo đức xuất phát từ những khủng hoảng tâm lý nhưng không được tháo gỡ kịp “cứu” trước khi quá muộnNgành giáo dục đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo tìm nguyên nhân và giải pháp đối với việc học sinh đánh nhau, học sinh tự tử, học sinh đánh thầy cô… Kết luận, trách nhiệm thuộc về 3 bên Gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, tình trạng này không giảm chứ chưa nói đến việc chấm dứt Phạm Anh Tuấn nhận định “Gia đình là định mệnh tự nhiên, trẻ con không thể chọn cha mẹ, “rơi” vào gia đình nào là may nhờ rủi chịu. Còn nhà trường là nơi làm việc chủ động, khoa học, có phương pháp. 50 học sinh là 50 số phận khác nhau, nhưng nhà trường là số phận chung. Nhà trường là nơi có thể chủ động tạo ra năng lực yêu thương, năng lực cảm thông, tạo ra tri thức, sửa chữa, hạn chế cái sai của từng học sinh. Nếu nhà trường làm đúng thì sẽ giúp các em vượt qua số phận cá nhân”.Cần có sự tư vấn từ phía nhà trường để học sinh phát triển tâm lý ổn định. Ảnh Hải NguyễnMột số nhà trường, giáo viên với cùng quan điểm này, thay vì chờ đợi những giải pháp từ “trên” hay tới khi có sự việc không hay xảy ra mới giải quyết, đã chủ động tìm học trò, tạo cơ hội cho học trò tìm đến để tâm sự, gỡ rối với các trong những cơ sở giáo dục đi đầu về việc tư vấn tâm lý cho học sinh là Trường THPT Đinh Tiên Hoàng Hà Nội. Phòng tham vấn tâm lý của Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội hoạt động từ năm 2005, mỗi năm học có từ 80-100 trường hợp tìm tới tư vấn, số lượt HS được tư vấn đến nay đã lên tới con số gần một nghìn. Tuy nhiên, ngoài trường Đinh Tiên Hoàng, ở Hà Nội hiện nay số trường học có phòng tham vấn tâm lý chỉ đếm trên đầu ngón tay như Trường THCS Ngô Sỹ Liên, Trường THPT Nguyễn Tất Thành, Trường THPT Trần Hưng Đạo…Thầy giáo Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu, giảng viên khoa Tâm lý giáo dục, Trường ĐH Sư phạm TPHCM - rút ra kết luận, giới trẻ hiện nay đang gặp phải 3 vấn đề chính Thứ nhất là lúng túng trong định hướng cuộc đời. Nhiều bạn trẻ không biết mình sống và học tập để làm gì; thứ hai là thiếu bản lĩnh đối đầu với thử thách của cuộc sống. Trước những vấp váp dù lớn hay nhỏ bị điểm kém, bị cha mẹ trách mắng… các bạn cũng dễ dàng phóng đại thành bi kịch lớn; thứ ba là thiếu kỹ năng ứng xử trong tình yêu. Đó là lý do vì sao thời gian qua xuất hiện nhiều bi kịch yêu mù quáng của giới trẻ…Từ thực tiễn làm việc của mình, thầy Hiếu cũng cho rằng nhu cầu được tư vấn tâm lý của học sinh bây giờ là có thực nhưng trên thực tế, người lớn lại chưa chú tâm nhiều đến việc “lắng nghe các em nói”. Trên Facebook của mình, thầy Hiếu viết “Trung bình 8/10 vị phụ huynh mà tôi từng tiếp xúc cho rằng “Bọn trẻ bây giờ rất hư!”. Tất cả đều cho biết trẻ hư do Internet, trò chơi điện tử, ảnh hưởng bởi bạn bè... Không có ý kiến nào trả lời “do người lớn”. Nhưng khi tiếp xúc với nhiều bạn trẻ, tôi lại nhận ra rằng Giới trẻ đang có một cái nhìn tổn thương về người lớn”.“Điều tôi muốn nói với các phụ huynh là hãy hỏi ý kiến con cái, để các em có tiếng nói trong việc lựa chọn học tập, nên khuyến khích, động viên thay vì áp đặt. Có như vậy mới tránh được những trường hợp đáng tiếc khi các con phản ứng thái quá hay làm chỉ để đối phó, nhất là thời điểm quan trọng hiện nay” - TS Nguyễn Kim Quý cũng nhấn mạnh. Những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học có thể dễ bị bỏ qua, bởi chúng thường không có biểu hiện rõ ràng, khiến phụ huynh đôi khi cũng có những nhầm tưởng và không thể giúp con trẻ giải quyết kịp thời. Trong bài viết lần này, hãy cùng Twinkl điểm qua một số khó khăn tâm lý thường gặp ở học sinh tiểu học và những phương pháp hiệu quả giúp trẻ chuẩn bị quay lại trường học nhé. Nội dung chính Những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học Lo âu khi đi học Khả năng tập trung kém Xa lạ với mọi thứ xung quanh Những phương pháp giải quyết lo âu khi đi học của trẻ Giải quyết những nỗi lo về thể lý và tinh thần Xây dựng lịch trình sinh hoạt đều đặn Hãy kiên nhẫn với trẻ Sau một kỳ nghỉ dài, trẻ em thường rất phấn chấn khi quay trở lại trường học, nhưng một số ít thì lại không. Các bé có thể lo lắng, từ chối đến trường hoặc có những phản ứng tiêu cực để từ chối việc đến trường. Đây chính là một trong những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học mà chúng ta thường hay bỏ qua, dẫn đến việc trẻ dễ dàng cảm thấy áp lực khi đi học. Vậy khó khăn tâm lý là gì? Đâu là những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học mà chúng ta nên chú ý đến? Hãy cùng Twinkl tìm hiểu và chuẩn bị tâm lý cho trẻ quay lại trường nhé. Những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học Lo âu khi đi học Một trong những khó khăn thường gặp của học sinh tiểu học về tâm lý là sự lo âu khi quay lại trường học. Được dịch từ back-to-school anxiety, lo âu khi quay lại học đường là một hiện tượng trẻ cảm thấy lo lắng khi phải quay trở lại trường học. Những nỗi lo lắng này thực chất xuất phát từ một cơ chế phòng vệ luôn tồn tại trong chúng ta, bởi chúng giúp sản xuất ra hormone Adrenaline, giúp cơ thể đối phó với những tình huống nguy hiểm, không thể lường trước được và có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của bản thân. Cơ chế phòng vệ của cơ thể là điều chỉnh và đáp ứng với từng loại môi trường nhất định. Sau một thời gian được nghỉ hè và thư giãn, cơ thể và trí não của trẻ đã điều chỉnh để quen với thói quen sinh hoạt thoải mái tại nhà. Vậy nên đột ngột quay lại trường học mà không có sự chuẩn bị trước sẽ làm trẻ sinh ra lo âu và căng thẳng. Mức độ nặng nhẹ của lo âu khi đi học biểu hiện đa dạng, phụ thuộc vào tính cách của trẻ đối với các bé năng động và có xu hướng hướng ngoại, trẻ có thể cảm thấy bồn chồn, nôn nao trong ruột… Tuy nhiên, đối với các bé hướng nội hoặc thường dành nhiều thời gian bên cạnh phụ huynh có thể biểu hiện nghiêm trọng hơn, như thường xuyên lo lắng khi đi học, căng thẳng, những cơn đau vặt như đau đầu, đau bụng.. Hoặc nghiêm trọng hơn, là những phản ứng tiêu cực để phản kháng việc đến trường. Khả năng tập trung kém Khả năng tập trung kém dường như đã trở thành một trong những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học khi quay lại trường học. Khó khăn tâm lý này xuất phát từ việc thay đổi môi trường xung quanh, cũng như hàng loạt nội quy và đánh giá đột ngột xuất hiện. Bước vào môi trường tiểu học cũng giống như bắt đầu đi vào quy củ, trẻ phải tuân theo nội quy nhà trường và không được tự do vui chơi như trước. Bên cạnh đó, quá trình học của trẻ sẽ được đánh giá bằng bài tập, bài kiểm tra, bắt buộc trẻ phải chú tâm vào nội dung bài học trên lớp. Những sự thay đổi này đều tạo ra áp lực học đường lớn, bởi trong độ tuổi từ 5 đến 7 tuổi, trẻ vẫn đang trong giai đoạn khám phá và tò mò về thế giới xung quanh. Việc tập trung vào các bài giảng trên lớp có thể gây ra sự nhàm chán với trẻ, khiến trẻ dễ sao nhãng, thiếu tập trung, chất lượng học tập giảm sút. Đôi lúc phụ huynh sẽ cho rằng trẻ đang lười học và trách mắng, nhưng thật ra đây là một giai đoạn phát triển tự nhiên của trẻ mà chúng ta nên tôn trọng và tìm cách giải quyết. Xa lạ với mọi thứ xung quanh Đây cũng là một lý do phổ biến khi nhắc đến khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học. Từ khi sinh ra, trẻ đã bắt đầu hình thành mối quan hệ chặt chẽ với những người nuôi dưỡng của mình. Bên cạnh đó, bản năng làm cha mẹ của phụ huynh sẽ ưu tiên cho sự an toàn của con, vì vậy phụ huynh thường có xu hướng tạo ra một vùng an toàn nhất định xung quanh đứa trẻ. Với những bé hướng ngoại, các bé có thể dễ dàng vượt ra khỏi vùng an toàn này trong quá trình khám phá thế giới. Tuy nhiên, với các bé có liên kết sâu sắc với phụ huynh, hoặc xem phụ huynh là những người bạn đồng hành, thì sẽ rất khó để vượt ra khỏi vùng an toàn này mà không có sự hỗ trợ, dẫn dắt của phụ huynh. Cũng như trẻ em, chúng ta luôn sợ hãi trước những sự thay đổi vì chúng ta biết rằng, kết quả của những sự thay đổi là một ẩn số. Bước ra khỏi vùng an toàn của năm học cũ đồng nghĩa với việc đối mặt với những thử thách mới, những khó khăn mới. Áp lực học đường xuất hiện khi trẻ không thể đoán được viễn cảnh sắp đến, điều này sẽ ép trẻ tự suy diễn và tưởng tượng ra những viễn cảnh về năm học mới, gây ra những lo lắng khi đi học. Nguồn Cleveland Clinic Health Essentials Những phương pháp giải quyết lo âu khi đi học của trẻ Giải quyết những nỗi lo về thể lý và tinh thần Một trong những dấu hiệu đầu tiên thể hiện những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học là những biểu hiện bất ổn mà ta có thể quan sát được. Phân loại theo mức độ từ nhẹ đến nghiêm trọng, có 5 biểu hiện thể hiện sự lo lắng Lo lắng, bồn chồn, nôn nao, khó tập trung Hay hỏi những câu hỏi dò xét Những câu hỏi mang tính thoái thác, tìm cách trốn tránh việc đi học Những cơn đau lặt vặt như đau bụng, đau đầu... Phản kháng kịch liệt và thái độ tiêu cực với việc đến trường Các biểu hiện này được xem là phản ứng của cơ thể khi đối phó với stress trong một khoảng thời gian dài và nó là những biểu hiện rất tự nhiên của cơ thể. Dựa vào những biểu hiện này, phụ huynh có thể theo dõi để xác định xem trẻ đang trải qua giai đoạn nào, từ đó tìm ra phương án giải quyết hợp lý giúp trẻ giải quyết nỗi lo lắng của mình. Một trong những cách gỡ rối hữu ích chính là liên tục giao tiếp với con, từ đó chúng ta sẽ hiểu được tâm lý và cảm giác của con hơn. Dạy con trân trọng cảm giác của mình sẽ giúp trẻ điều tiết cảm xúc của mình tốt hơn, từ đó phụ huynh có thể hạn chế được những phản ứng tiêu cực mà con sẽ thể hiện. Nếu các con ngại giao tiếp và gặp rắc rối trong việc sắp xếp ý tưởng thành lời nói, phụ huynh có thể thử sử dụng trò chơi Cây Lo Lắng, giúp con ghi ra những lo lắng mà con đang phải trải qua. Xây dựng lịch trình sinh hoạt đều đặn Để đối phó với tình trạng thay đổi bất chợt lịch sinh hoạt của trẻ, việc cần làm là phải giúp trẻ làm quen với lịch sinh hoạt trước khi trẻ đi học trở lại. Trước khi nhập học khoảng 1 đến 2 tuần, phụ huynh hãy thử cho trẻ sinh hoạt theo lịch trình đi học, từ việc ngủ dậy, ăn sáng và hoạt động xuyên suốt trong ngày. Điều này sẽ giúp não của trẻ dần thích ứng với những thay đổi, hạn chế sự đột ngột khi phải quay lại trường học. Bên cạnh đó, phụ huynh cũng có thể theo dõi và cùng trẻ điều chỉnh một lịch sinh hoạt điều độ, phù hợp với sự phát triển của trẻ. Hãy kiên nhẫn với trẻ Đôi khi, phụ huynh sẽ nghĩ rằng những thái độ và hành vi mà trẻ thể hiện là sự chống đối, chúng ta vô tình áp đặt lên con những định kiến tiêu cực như “lười học”, “ham chơi”, “có một tí mà cũng không làm xong”... khi thấy con không thể thích ứng với sự thay đổi này. Không những không giúp con vượt qua vấn đề của mình, những sự chỉ trích này còn có nguy cơ để lại tổn thương tâm lý và sẽ tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực tới trẻ. Sự thật rằng khi trẻ chọn cách giả vờ không muốn đến trường, có thể trẻ đang phải đối mặt với các vấn đề khác, hơn là việc thích hay không thích. Đó có thể rơi vào tình trạng lo âu khi đi học, hoặc những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học thường gặp hoặc cũng có thể là việc học chưa đủ thú vị đối với lứa tuổi năng động của trẻ. Vì vậy hãy thật kiên nhẫn với con, như thế chúng ta mới có thể tìm ra phương pháp hợp lý giúp con thoải mái đến trường. Tôn trọng cảm xúc của con chính là đang giúp con xây dựng sức khỏe tinh thần khỏe mạnh. Hãy giao tiếp và kiên nhẫn trở thành bạn đồng hành với con nhé. Nguồn Những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học thường bị xem nhẹ, bởi chúng ta hay quan niệm trẻ con thì đã phải làm gì khó khăn. Nhưng thật ra, trẻ em cũng giống chúng ta vậy, các con cũng sẽ căng thẳng lo âu khi đối diện với thử thách, và các con cũng cần có những nguồn động viên để tiếp thêm sức mạnh cho mình. Vì vậy, hãy trở thành người bạn đồng hành với con trên con đường học vấn sắp tới nhé! Giai đoạn Tiểu học là giai đoạn vô cùng quan trọng đối với phát triển và hình thành một số tâm lý sơ khai của các em học sinh. Chính vì thế, ở thời điểm này các em sẽ gặp phải không ít những khó khăn tâm lý. Vậy những khó khăn đó là gì và biện pháp khắc phục ra sao? Mời các bạn cùng chúng tôi tìm hiểu bài viết dưới đây nhé. Nhận thức mới mẻ, xa lạ với mọi thứ xung quanh Tâm lý này được biểu hiện rõ rệt nhất ở các em lớp 1 vì đây là lần đầu tiên chúng tiếp xúc với một không gian sinh hoạt hoàn toàn mới nhưng lại không có sự kề cạnh của bố mẹ. Nhận thức mới mẻ, xa lạ với mọi thứ xung quanh Những sự va chạm, những món đồ dùng học tập, bạn bè mới, thấy cô mới khiến chúng cảm giác lạ lẩm. Đối với trẻ có tính cách linh hoạt và bản lĩnh mạnh, chúng sẽ có tâm lý muốn tìm hiểu và muốn biết nhiều thứ xung quanh. Bên cạnh đó lại có những em học sinh có tâm lý nhạy cảm, chúng sẽ có thái độ từ chối tiếp xúc và ghì chặt lấy người thân không chịu đến trường để học tập. Cách khắc phục Giới thiệu mọi thứ để các em học sinh có thể làm quen và thích nghi . Xây dựng sự tương tác và nêu ra các lợi ích từ việc đi học để thu hút các em đến trường. Khả năng tập trung lắng nghe thấp Ở độ tuổi nhạy cảm này các em chưa thể hoàn toàn tập trung vào việc học và nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của giáo dục nên thường bị sao lãng trong các buổi học và làm việc riêng khi đang được các giáo viên đứng lớp giảng bài. Hậu quả của việc này dẫn đến tình trạng các em bị mất kiến thức nền tảng và không kích ứng đước khả năng tư duy của trẻ. Khả năng tập trung lắng nghe thấp Cách khắc phục Khi phát hiện trẻ có dấu hiệu sao lãng bài vở thì giáo viên nên kịp thời nhắc nhở nghiêm khắc để hình thành thói quen và quy tắc tiết học yêu cầu các em phải tuân thủ. Nếu trường hợp giáo viên đang giảng bài mà các em quay đi quay lại thì giáo viên cần đưa ngay tên học sinh đó vào lời giảng của mình, cho một ví dụ thu hút hoặc có sự hài hước kéo sự quan tâm và chú ý của bé quay lại bài học. Viết chữ sai chính tả, viết ngược Viết ngược thường xuất hiện đa phần ở các học sinh lớp 1 việc làm quen với chữ viết với các em rất khó khăn bởi đôi tay vụng về, con chữ còn nguệch ngoạc. Thực tế chúng ta có thể hiểu rằng các em lần đầu tiên viết nên không biết được cấu tạo của nét chữ, độ cao, đồ rộng, khoảng cách giữa các chữ viết nên việc dẫn đến hiện tượng viết chữ ngược là rất bình thường. Viết chữ sai chính tả, viết ngược Viết sai chính tả bắt nguộc từ việc các em chưa thật sự nắm được sự liên kết giữa các thanh âm hoặc bị nhầm lẫn giữa các âm tiết có cách đọc gần giống nhau. Cách khắc phục Thường xuyên cho trẻ tập luyện và khuyến khích trẻ nói lên những khó khăn gặp phải khi viết sai. Đọc và chép lại các chữ bị sai chính tả là một trong những cách giúp em ghi nhớ chữ viết lâu hơn. Động viên khen thưởng khi bé khắc phục được lỗi sai và có thành tích tiến bộ. Luôn có cảm giác buồn ngủ Ở độ tuổi này các em vẫn còn chưa hình thành được nề nếp sống chủ yếu là sinh hoạt theo bản năng, ăn ngủ là chuyện thường tình bởi thế nên nhiều em sáng ra đến trường hai mắt cứ lờ đờ và khi vào tiết học thì ngủ sâu trên bàn học. Điều này khiến cho chất lượng của bài giảng bị giảm sút và khả năng tiếp thu tri thức kém. Cách khắc phục Luôn có cảm giác buồn ngủ trong giờ học Khuyến khích các em đi ngủ đúng giờ. Nêu ra những tác hại nếu như các em ngủ tại lớp. Giáo viên nên nhắc nhỡ các em với tâm lý và thái độ là chia sẽ, gần gũi, không được dùng bạo lực hoặc các hành vi răn đe khiến tâm lý trẻ bị kích động và sợ phải đến lớp. Thường xuyên bị mất đồ dùng học tập Có rất nhiều vấn đề bé có thể gặp phải như chưa thực sự biết tuân thủ các quy định của trường lớp, khó tập trung hoàn toàn trong tiết học, chưa thích ứng được với môi trường mới và bên cạnh đó một số trẻ sẽ gặp phải tình huống là thường xuyên thất lạc đồ dùng học tập như bút, thước, cục tẩy… Cách khắc phục Đánh dấu tên vào đồ dùng học tập và dặn dò các em lưu ý các vật dụng có tên mình. Phụ huynh nên chuẩn bị dụng cụ học tập cho bé trước khi đến lớp, sắp xếp chúng gọn gàng vào hộp bút hoặc ngăn cặp. Thường xuyên bị mất đồ dùng học tập Dặn dò các bé bảo vệ tài sản của mình và khen thưởng khi bé không làm thất lạc đồ. Liệt kê danh sách các món đồ phải mang đến trường hình thành cho trẻ thói quen ý thức tự giữ gìn và bảo quản chúng mỗi ngày. Sợ hãi và ngại giao tiếp Đây là tâm lý chung của các em bởi việc hình thành tạo lập các mối quan hệ mới không phải là người thân của mình là một điều vô cùng khó khăn, các bé thường lo sợ, thậm chí thỉnh thoảng hay khóc và đòi về nhà với bố mẹ. Cách khắc phục Giúp trẻ liên kế với bạn bè cùng lớp và tổ chức các trò chơi tập thể để các học sinh vui chơi với nhau. Trò chuyện, động viên và khuyến khích các em hoạt động vui chơi lành mạnh. Bên cạnh những khó khăn được nêu trên thì còn một số các khó khăn khác nảy sinh trong quá trình học tập hoặc trong quan hệ giữa thầy cô và bạn bè mà các em vẫn thường hay mắc phải. Hi vọng bài viết trên phần nào cũng đã giúp các bạn hình dung ra được những khó khăn cơ bản mà chúng ta thường hay bắt gặp ở lứa tuổi Tiểu học. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm một số phương pháp dạy học tích cực để bổ trợ cho công tác giảng dạy của mình trở nên hiệu quả hơn nhé. 3. Rối loạn lưỡng cực bipolar disorder Rối loạn lưỡng cực còn gọi là rối loạn hưng cảm là tình trạng rối loạn tâm trạng có thể dẫn đến giai đoạn trầm cảm về sau. Sau đây là các triệu chứng của rối loạn lưỡng cực Hành động lạc quan hoặc tràn đầy năng lượng bất thường Cảm giác tự tin phóng đại Không ngủ nhiều như bình thường Nói chuyện thay đổi chủ đề liên tục Nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác trong cuộc trò chuyện Hành động liều lĩnh. >> Xem thêm Rối loạn lưỡng cực bệnh hưng – trầm cảm 4. Suy giảm nhận thức Alzheimer và chứng mất trí nhớ có thể có ảnh hưởng lớn đến tâm trạng và tính cách cho người lớn tuổi. Theo thời gian, sự suy giảm nhận thức có thể làm mất đi sự kết nối với thế giới bên ngoài. Thông thường người cao niên mắc chứng mất trí nhớ thường có dấu hiệu tức giận, kích động, lo lắng hoặc buồn bã. 5. Các vấn đề sức khỏe thế chất Người cao tuổi phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe thể chất. Những cơn đau mãn tính cũng có thể gây ra sự thay đổi tâm trạng. Nếu cơn đau xuất hiện và gây khó chịu suốt cả ngày có thể khiến người già khó chịu, nhầm lẫn và bồn chồn. >> Tham khảo thêm 9 bệnh người già phổ biến nhất và Cách phòng ngừa Những thay đổi tâm lý người cao tuổi Những khó khăn mà người già phải đối mặt ngoài những vấn đề về thể chất thì chính những thay đổi tâm lý cũng sẽ ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống của chính họ và những mối quan hệ xung quanh. Một số những thay đổi tâm lý người cao tuổi như 1. Cự tuyệt. Một số người lớn tuổi chưa chấp nhận những thay đổi về tâm tính và ngoại hình khi về già. Trong khi có một số người lớn tuổi khác có thể từ chối thừa nhận rằng những thay đổi này xảy ra trong chính họ 2. Cô đơn và buồn tủi. Dấu hiệu khi người già thấy tủi thân là gì? Người lớn tuổi có thể tự cô lập mình, đặc biệt sau khi trải qua sự mất mát nào đó trong cuộc sống. Ngoài ra, việc con cháu quá bận rộn công việc, không dành nhiều thời gian cho họ cũng sẽ khiến người cao tuổi cảm giác tủi thân vì cô đơn. >> Đọc thêm Người già cô đơn Thấu hiểu nỗi buồn và cách vượt qua 3. Cảm giác bất lực. Khi những chức năng cơ thể suy giảm, một số người lớn tuổi có thể cảm thấy vô dụng, bất lực không thể tự sắp xếp cuộc sống cho mình mà phải nhờ người khác chăm sóc 4. Thường xuyên chỉ trích và hay nghi ngờ. Một số người cao tuổi trở nên đa nghi hơn, không tin bất kỳ ai, tự cảm giác mình đang bị thao túng. Điều này có thể ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa các các thành viên và phá vỡ sự hòa thuận trong gia đình. 5. Bảo thủ. Những người lớn tuổi khi cảm thấy mất kiểm soát, họ có thể cố gắng lấy lại quyền kiểm soát bằng cách áp đặt mọi người phải theo cách của họ. Sự bảo thủ sẽ khiến người cao tuổi khó có thể hòa thuận với thành viên khác trong gia đình. 6. Thường nhắc về quá khứ hoài niệm. Người lớn tuổi thường có xu hướng hoài niệm về những sự kiện đã xảy ra lúc họ còn trẻ. Những sự kiện đó có thể là chuyện vui và buồn. Người cao tuổi có thể bóp méo thực tế và giữ vững niềm tin sai lầm nào đó. Bởi họ không muốn chấp nhận sự thật về sự thay đổi của tuổi già. 7. Nghiêm khắc và dễ tức giận. Khi người lớn tuổi cảm thấy rằng họ không có quyền kiểm soát nữa, họ có thể phản ứng bằng cách thể hiện sự tức giận của mình. Việc thể hiện sự tức giận của mình đối với các thành viên trong gia đình vì họ tin rằng người thân vẫn sẽ yêu họ dù có tức giận thế nào. Vì vậy, điều này có thể dẫn đến sự bất hòa trong gia đình. 8. Hay nói nhiều. Người cao tuổi mong muốn truyền đạt lại kinh nghiệm sống cho con cháu, mong thế hệ sau không phạm những sai lầm mà họ đã trải qua nên họ luôn nói nhiều, và muốn giúp ích cho con cháu về sau. 9. Thường xuyên lo lắng. Một số người lớn tuổi khi cảm thấy mọi thứ đều không chắc chắn, họ bắt đầu có xu hướng chán nản hoặc lo lắng. Điều quan trọng là bạn nên giúp người già hiểu rằng những cảm giác này là điều tự tin và bình thường, luôn ở bên động viên họ nếu cảm xúc đó kéo dài và ảnh hưởng tới cuộc sống hàng ngày của người già. >> Đọc thêm Nhịp tim bình thường của người già bao nhiêu là ổn? Cách chăm sóc tim mạch cho người già Làm sao để động viên và giao tiếp với người già trước những thay đổi tâm lý đó? Người già cần gì? Để san sẻ và hiểu hơn về cách chăm sóc tâm lý người cao tuổi, bạn hãy thực hành những điều sau Lắng nghe một cách thiện chí. Khoảng cách thế hệ có thể dẫn đến những mâu thuẫn, hoặc khác biệt về quan điểm. Chính vì thế, việc lắng nghe và thấu hiểu cho những suy nghĩ, góc nhìn của người lớn tuổi là điều rất quan trọng. Để người già phát huy vai trò của họ trong gia đình. Nếu bạn muốn nắm bắt được tâm lý người cao tuổi, trước tiên, hãy để người già được thoải mái sống đúng với vai trò mà họ mong muốn. Hãy nhẫn nại và cởi mở hơn. Những thay đổi trong đặc điểm tâm lý người cao tuổi đôi khi không nằm trong sự kiểm soát của ông bà. Tâm lý của người già còn bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của xã hội, tác dụng phụ của thuốc,… Vì thế, việc kiên nhẫn để hiểu hơn về người già là vô cùng quan trọng. Cách động viên và giao tiếp với người già Bạn có thể tham khảo một số cách dưới đây để động viên và giao tiếp với người già, giúp họ hòa nhập và sống vui vẻ lạc quan hơn Hỏi thăm và lắng nghe những ký ức xưa của người cao tuổi Tổ chức buổi sum họp gia đình giúp họ gần gũi hơn với con cháu Luôn kiên nhẫn. Với những người cao tuổi nói nhiều, bạn cần kiên nhẫn lắng nghe câu chuyện để có thể hiểu nguyện vọng và tâm tư của họ Hỏi ý kiến người cao tuổi. Họ sẽ rất vui và cảm giác có ích để giúp đỡ con cháu bằng kinh nghiệm sống của mình Khéo léo khi đưa ra quan điểm. Vì khoảng cách thế hệ, nền giáo dục khác nhau nên khi đưa ra quan điểm khác với người lớn tuổi, bạn có thể khéo léo thể hiện quan điểm của mình khi nói chuyện với người cao tuổi. Để thể hiện sự tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người lớn tuổi như ’con đồng ý quan điểm của ông/bà, con thấy nhiều người có suy nghĩ rằng… mà mình có thể tham khảo thêm’’. >>> Xem thêm 8 bí quyết chăm sóc người cao tuổi ngay cả khi bạn bận rộn Việc chăm sóc và hỗ trợ người lớn tuổi là việc không dễ dàng, đặc biết đối với những thay đổi tâm lý người cao tuổi. Tuy nhiên việc hiểu nguyên do của những thay đổi đó sẽ giúp chúng ta thấu hiểu, đồng cảm hơn cho nỗi lòng của người lớn tuổi. Từ đó, có thể giúp người cao tuổi có cuộc sống vui vẻ, lạc quan hơn bên con cháu. Trong phần một, chúng ta đã cùng tìm hiểu khái niệm sinh viên đại học qua lăng kính một số học thuyết phát triển về độ tuổi mới trưởng thành. Trong phần này, mình sẽ giới thiệu những khó khăn tâm lý thường gặp của sinh viên và gợi ý một số hướng phát triển hệ thống hỗ trợ sức khỏe tâm lý cho sinh viên, dựa trên những tựa sách mới nhất về chủ đề này. Vấn đề về tập thể, văn hóa và các mối quan hệKhi nhìn vào những điều được liệt kê dưới đây, mình muốn mời bạn dừng lại một chút và ngẫm nghĩ về chính trải nghiệm của bạn hay của một ai khác về những chủ đề này khi bạn hoặc họ ở độ tuổi 18-24Phân biệt đối xửMặc cảm ngoại hìnhVấn đề với gia đình hay các mối quan hệ thân mậtHoạt động tình dụcĐịnh hướng xu hướng tính dụcQuyết định tham gia các hoạt động tập thểĐau buồn và mất mátTrên đây chỉ là một số trong vô vàn những chủ đề mà người tuổi mới trưởng thành thường hay gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm câu trả lời và định hướng cho bản thân. Ví dụ trong chủ đề hoạt động tình dục, nghiên cứu trên 320 sinh viên từ một trường đại học công lập của Thái Lan cho thấy 68% sinh viên đã quan hệ tình dục, nhưng chỉ có 34% từng bàn luận về các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục [1]. Điều này cho thấy, quyết định quan hệ tình dục của sinh viên trong nghiên cứu chưa được cân nhắc kỹ càng. Ngoài việc chưa am hiểu về tình dục an toàn, xung quanh quyết định này còn có thể tồn tại những vấn đề khác như bạo lực tình dục, chưa biết cách thẳng thắn từ chối và đặt ra giới hạn, áp lực từ bạn bè về việc phải sớm quan hệ tình dục lần đầu tiên, Những câu hỏi quan trọng sinh viên phải tự trả lời trong quá trình hình thành bản thân này rất dễ dàng dẫn đến lo lắng và căng thẳng [2], nếu không có sự hỗ trợ sớm, những vấn đề này có thể kéo dài và gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến học tập và đời sống của sinh viên. Những vấn đề về sức khỏe tâm lý Ngoài các vấn đề thường gặp nêu trên, đôi khi sinh viên đại học còn có thể gặp phải những rối loạn tâm lý. Những rối loạn này thường được chẩn đoán dựa trên DSM-5 Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần và ICD 10 Phân loại bệnh quốc tế, sửa đổi lần thứ mười. Tuy nhiên, chỉ những chuyên gia tư vấn/tham vấn tâm lý được đào tạo ít nhất là hệ thạc sĩ tư vấn tâm lý và có chứng chỉ hành nghề, mới có thể chẩn đoán một số rối loạn phổ biến cho sinh viên nhưRối loạn trầm cảm depressive disordersRối loạn lo âu anxiety disordersRối loạn thích nghi adjustment disordersRối loạn ăn uống feeding and eating disordersRối loạn liên quan đến chất gây nghiện substance-related and addictive disordersTự gây thương tích nonsuicidal self injuryRối loạn hành vi tự sát suicidal behavior disordersTrong số những rối loạn tâm lý trên, bốn rối loạn phổ biến nhất của sinh viên tại Mỹ là rối loạn trầm cảm, ăn uống, sử dụng rượu bia và các rối loạn liên quan đến sự tấn công/bạo lực tình dục. Có đến 65% sinh viên nữ năm nhất tại Mỹ đối mặt với triệu chứng rối loạn ăn uống [3]. Khoảng 25% tổng số sinh viên tìm kiếm trợ giúp từ phòng tư vấn tâm lý có chẩn đoán rối loạn trầm cảm [4]. Gần 20% sinh viên Mỹ uống rượu quá độ, và vấn đề này trực tiếp liên quan đến tấn công và bạo lực tình dục mà rất nhiều sinh viên đa phần thuộc phái nữ từng gặp phải trong quá trình đại học [5]. Mình liệt kê những con số này để nói lên sự phổ biến của các vấn đề tâm lý trong sinh viên mà giới hạn bài viết này chưa thể đi sâu vào chi tiết. Nhà tham vấn tâm lý chuyên làm việc với sinh viên đại học có thể tham khảo tựa sách College student mental health counseling A developmental approach xuất bản năm 2014 để hiểu rõ hơn về cách phòng ngừa, công cụ đánh giá, kế hoạch điều trị chuyên dành cho sinh viên, đồng thời thường xuyên cập nhật và trau dồi kiến thức chẩn đoán khoa học theo Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần hiện nay là DSM-5.Một số định hướng cho giáo dục đại học nhằm hỗ trợ sức khỏe tâm lý cho sinh viênTrong một trong những tựa sách mới nhất xuất bản năm 2020 viết về tư vấn tâm lý đại học, tác giả Derrick Paladino và các cộng sự đề xuất những mô hình hỗ trợ sức khỏe tâm lý cho sinh viên như sau [6] 1. Giáo dục và phòng ngừa education and preventionNhững vấn đề về tập thể, văn hóa, và các mối quan hệ, tuy đa dạng và đặt ra vô vàn câu hỏi cho sinh viên, nhưng lại hoàn toàn có thể tiếp cận sớm trong công tác phòng ngừa, nhằm giảm khả năng phát triển thành các rối loạn tâm lý lâm sàng nghiêm trọng hơn. Thực tế, đây là ưu tiên hàng đầu cho các mô hình hỗ trợ sự phát triển thành công cho sinh viên student development và student success và là nhiệm vụ thiết yếu của trường đại học [7]. Khi những vấn đề phổ biến này phát triển thành các triệu chứng rối loạn tâm lý, sinh viên có thể gặp khó khăn trong việc nhận ra tính trầm trọng của các triệu chứng và trong việc tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời. Cụ thể, nghiên cứu của Hương Nguyễn và Chi Nguyễn khảo sát trên 350 sinh viên đại học Việt Nam cho thấy chỉ 32% sinh viên nhận diện được các triệu chứng trầm cảm cơ bản [8]. Điều này cho thấy thấy, trường đại học cần chủ động tạo ra những không gian giáo dục, phòng ngừa an toàn, vô định kiến để sinh viên có thể tin tưởng tham gia và thoải mái tìm hiểu về những khó khăn này. Một ví dụ cho cách tiếp cận này là trang Facebook Wellbeing - RMIT Vietnam được đại học RMIT Việt Nam sử dụng nhằm truyền tải những thông tin về sức khỏe tâm lý cho sinh viên. RMIT cũng thường xuyên tổ chức các buổi workshop để giới thiệu và tạo không gian cho sinh viên thảo luận về các vấn đề như [9] Quấy rối tình dục sexual harassment Bắt nạt/đe dọa trực tuyến bullying/cyberbullyingUống rượu bia và sử dụng các chất kích thích drug and alcohol consumption Trách nhiệm cùng xây dựng cộng đồng an toàn safer community responsibilities Cách quản lý và giải quyết sự tức giận/xung đột anger/conflict management and resolvingMột số gợi ý khác về phương pháp giáo dục, phòng ngừa mà trường Loyola Marymount University nơi mình đang theo học hiện đang áp dụng gồm [10]Đào tạo một nhóm sinh viên có khả năng tổ chức, truyền đạt thông tin sức khỏe tâm lý cho đồng môn và sử dụng ngôn ngữ của sinh viên để có thể tiếp cận gần gũi hơn với những vấn đề khó diễn đạtĐẩy mạnh truyền thông và xóa bỏ định kiến về các rối loạn tâm lý và việc tìm kiếm sự trợ giúp của sinh viênĐưa một số bộ môn giáo dục tâm lý/kỹ năng cơ bản vào chương trình giới thiệu chung cho tân sinh viên 2. Can thiệp tâm lý psychological interventionTrong một vài năm gần đây, các văn phòng tư vấn tâm lý mở ra rầm rộ tại các trường đại học Việt Nam với hy vọng đáp ứng dịch vụ tư vấn và can thiệp tâm lý cho sinh viên. Không chỉ các trường đại học quốc tế và bán công như RMIT, Fulbright, Hoa Sen, Tôn Đức Thắng, mà cả các trường công lập như ĐH Ngoại ngữ - ĐHQGHN, ĐH KHXH&NV - ĐHQG-HCM, ĐH Kinh tế Tài chính, cũng lập ra những phòng tư vấn riêng. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng một chuyên gia tham vấn tâm lý hoặc can thiệp khủng hoảng trực tiếp thực sự cần được đào tạo chuyên nghiệp khoảng 5 năm là ít nhất. Sinh viên không chỉ “cần người lắng nghe, chia sẻ nỗi niềm”, mà từng câu chữ, lời nói, thậm chí vài giây im lặng, hay chỉ một hơi thở, cái gật đầu của nhà tham vấn tâm lý đều đã phải qua đào tạo và rèn luyện bài bản vì chúng có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến mối quan hệ vô cùng nhạy cảm giữa nhà tham vấn và người được tham vấn. Bài toán kiểm soát chất lượng của các nhà tham vấn tâm lý tại Việt Nam còn khá nan giản do chưa có những hiệp hội tư vấn tâm lý và giám sát chất lượng mang tầm quốc gia và quốc tế. ĐH Hoa Sen và nhóm Sài Gòn PsycHub hiện đang khá tích cực trong việc công khai chứng chỉ, chất lượng đào tạo của các nhà tham vấn tâm lý của nhóm [11]. Năm 2015, trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG-HCM thiết kế và tổ chức đào tạo chương trình cử nhân tư vấn tâm lý tương đối giống với chương trình thạc sĩ tư vấn tâm lý tại Mỹ, hứa hẹn sẽ góp phần cải thiện được sự khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng trong ngành nghề này [12]. Một điểm cần lưu ý rằng, dù có bằng cấp tiến sĩ tâm lý học nhưng không được đào tạo và thực tập kỹ năng tham vấn counseling skills thì các “chuyên gia tham vấn” này sẽ không khác gì những nhà nghiên cứu toán học đi dạy toán mà không được đào tạo kỹ năng sư số gợi ý khác cho phương pháp can thiệp tâm lý mình quan sát được từ một số trường đại học của bang California gồm cóGiảm tối đa chi phí tham vấn, tư vấn tâm lý cho sinh viên, để khuyến khích sinh viên tìm kiếm sự giúp đỡ sớm nhất ngay từ lúc bắt đầu gặp khó khăn với các vấn đề sức khỏe tâm lýKết hợp với các bệnh viện, cơ sở y tế lân cận để cung cấp dịch vụ can thiệp khủng hoảng miễn phí cho sinh viênTổ chức các nhóm hỗ trợ kín và tư vấn theo nhóm, dĩ nhiên với điều kiện là chuyên viên tư vấn phải được đào tạo riêng về tham vấn và hỗ trợ trị liệu tâm lý nhóm group therapy and facilitationSử dụng TAO Therapy Assistance Online, một nền tảng hỗ trợ trực tuyến, nơi sinh viên có thể tự tìm kiếm các nguồn tự trợ giúp self-help, các biện pháp can thiệp rối loạn lo âu, trầm cảm, và các công cụ để rèn luyện chánh niệm mindfulness, tăng cường sức khỏe toàn diện wellnessGiới thiệu các đường dây nóng ngăn ngừa tự sát để sinh viên luôn có một kế hoạch an toàn safety plan cho mình và người thân cận trong giây phút một mình đối mặt với khủng hoảngXét đến khả năng và hoàn cảnh hiện tại của giáo dục đại học Việt Nam, hai phương pháp tiếp cận trên nên là ưu tiên số một. Tiếp đến, về phương pháp điều trị tâm lý treatment và quản lý sau điều trị after treatment trong môi trường đại học, có thể áp dụng những mô hình trị liệu tâm lý đã và đang được sử dụng phổ biến trong tư vấn tâm lý học đường school counseling như tư vấn tập trung vào cá nhân con người person-centered counseling, liệu pháp thực tế reality therapy, phương pháp tiếp cận hành vi nhận thức cognitive behavioral approaches, tư vấn ngắn gọn tập trung vào giải pháp solution-focused brief counseling, liệu pháp tường thuật narrative therapy và các phương pháp trị liệu sáng tạo như nghệ thuật và âm nhạc creative counseling approaches [13].Kết luậnQua hai phần của bài viết về sự phát triển và sức khỏe tâm lý của sinh viên này, mình hy vọng bạn đọc có được cái nhìn tổng quan về những thử thách sinh viên thường phải đối mặt trong quá trình học đại học và gợi mở một số phương pháp hỗ trợ sinh viên mà các trường đại học có thể áp dụng. Bản thân mình rất quan tâm tới độ tuổi này và luôn hy vọng nhận được nhiều ý kiến, câu hỏi về những khúc mắc các bạn sinh viên cần trợ giúp, cũng như tiếp tục nghiên cứu về đề tài tư vấn tâm lý cho sinh viên dưới góc nhìn của một nền giáo dục toàn diệnCuối cùng, xin mượn lời Hiệu trưởng trường đại học Fulbright Việt Nam, “Chúng tôi theo đuổi truyền thống giáo dục khai phóng của Mỹ nhưng chúng tôi là một cơ sở giáo dục Việt Nam có gốc rễ từ xã hội này. Chúng tôi không chỉ muốn trở thành một bản sao của người Mỹ”[14] để nhấn mạnh rằng, công cuộc phát triển nền giáo dục đại học tại Việt Nam, dưới sự dẫn dắt của những người trẻ và những công trình nghiên cứu tâm huyết, sẽ hoàn toàn có thể tạo ra một hướng đi riêng đầy sáng tạo cho Việt Nam. Để làm được điều này, mình hy vọng Việt Nam sẽ có nhiều hơn những sự hợp tác, nghiên cứu định tính từ các trung tâm/văn phòng tư vấn tâm lý và hỗ trợ sinh viên để có thể tạo tiền đề dữ liệu và gợi mở những câu hỏi nghiên cứu tiếp tập Hương LêMinh hoạ La QuỳnhDanh sách tham khảo[1] Ratanasiripong P, Rodriguez A. Promoting wellness for Thai college students. Journal of College Student Development [Internet]. 2011 Mar [cited 2021 Mar 6];522217–23. Available from [2] Degges-White S, Borzumato-Gainey C. College student mental health counseling a developmental approach. New York, NY Springer Publishing Company; 2014. 237 p.[3] Gladding ST. Counseling A comprehensive profession. Pearson Education; 2018. 373p.[4] Gladding ST. 373p.[5] Gladding ST. 374 p.[6] Paladino DA, Gonzalez LM, Watson JC. College counseling and student development theory, practice, and campus collaboration. American Counseling Association; 2020.[7] Higher Education Mental Health Alliance. About HEMHA. [cited 2021 Feb 25]. Available from [8] Nguyen CTQ, Nguyen HT. Mhealth literacy knowledge of depression among undergraduate students in Hanoi, Vietnam. International Journal of Mental Health Systems. 2018 [cited 2021 Mar 6]; 121. Available from [9] RMIT Vietnam Student Life HN. Emerging issues [Facebook]. 2020 Dec 14 [cited 2021 Feb 25]. Available from [10] Loyola Marymount University. Wellness [Internet]. Los Angeles, CA [cited 2021 Mar 7]. Available from [11] Saigon Psychub. Đội ngũ nhân sự. [cited 2021 Feb 25]. Available from [12] Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Chương trình giáo dục đại học khoa tâm lý học khóa 2019-2023. [cited 2021 Feb 25]. Available from [13] Crawford C. Popular counseling theories used by school counselors. In Studer JR, Diambra JF Eds.. A guide to practicum and internship for school counselors-in-training. New York, NY Routledge/Taylor & Francis Group; 2010. 31–45 p. [14] Marklein MB. Expanding the Fulbright Legacy in Vietnam. Change The Magazine of Higher Learning. 2018 [cited 2021 Mar 6] 50163–70.

khó khăn tâm lý